Splace là một trang thông tin nghiên cứu liên ngành mang tính học thuật hướng đến việc kết nối cộng đồng thiết kế nội thất với xã hội thông qua việc chia sẻ và trao đổi kiến thức. Các bài viết được tổng hợp, biên dịch một cách bài bản bởi các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực giảng dạy và thực hành thiết kế kiến trúc nội thất.
Featured Post
INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 2)
khái niệm “interiority” đã vượt qua giới hạn của môi trường bên trong để mở rộng đến các không gian công cộng của sự dịch chuyển, giao tiếp và tiêu thụ hàng loạt trong đô thị, kiến trúc và thiết kế nội thất đã cố gắng để mở rộng và thích nghi với giới hạn về đề tài bằng cách vượt qua giới hạn truyền thống về không gian và đối mặt với những nơi chốn đương đại của đời sống liên kết. Continue reading
INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 1)
Giới thiệu về ý thuyết fractal dimension và nhận ra mối quan hệ giữa built space- unbuilt space với exterior-interior. Đồng thời mở ra 2 khái niệm hai mở rộng quan trọng khác: interiority và urban interior. Continue reading
DI SẢN VẮNG MẶT VÀ ÁM ẢNH THỰC TẠI
Bài dịch này là một chương nhỏ trong báo cáo khoa học mang tên “Absent- Present” Heritage: The Cultural Heritage of Dwelling on the Changjian ( (Yangtze) River”, viết bởi giáo sư Andrew Law and Xi Chen năm 2020. Bài báo cáo giới thiệu sơ lược về cơ sở lý luận hình thành nên khái niệm “absent-present” heritage. Từ đó ứng dụng vào phân tích dấu vết còn sót lại từ những sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã từng tồn tại bên bờ sông Dương Tử và sự lưu giấu của những “bóng ma quá khứ” đó được lồng ghép vào thực tại ra sao. Continue reading
NGÔI NHÀ- NƠI CƯ NGỤ CỦA TRÁI TIM
Quyển sách là một công trình nghiên cứu kéo dài 20 năm của GS. Tomoda Hiromichi từ luận văn Thạc sĩ cho đến luận án tiến sĩ (Phần 1-Khu dân cư và tâm lý các cá nhân) cho đến quãng thời gian ông trở thành giảng viên tại Đại học nữ Showa (Phần 2- Nội thất và tâm lý không gian) và các phần nghiên cứu đi liền với thiết kế thực tế của tác giả (Phần 3- Nhà ở, văn hóa và tâm lý học chiều sâu, Phần 4- Biểu hiện của nhà ở, trào lưu và diện mạo bên ngoài). Continue reading
KHI CHÉN TRÀ LÀ ĐẦU CÂU CHUYỆN
“Câu chuyện về trà là câu chuyện tóm tắt về loài người, có lẽ chỉ ngắn gọn đủ để đựng vừa trong một chén trà. Nó bao gồm những gì tốt đẹp nhất mà cũng tồi tệ nhất của việc chúng ta là ai và chúng ta làm gì.” Continue reading
TẢN MẠN CHUYỆN CON VOI & MỖI ĐẦU LÔNG
Mỗi quyển sách sẽ là một dấu vết của Sự thật, ví như Mỗi Đầu Lông của 1 Con Voi vậy. Hy vọng mỗi tuần trôi qua, chúng ta lại đến gần hơn với Chân tướng. Dù có thể không thu nhặt được gì thì hành trình đi tìm đã là niềm vui. Continue reading
Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 1)
Bài viết này nằm trong tập 4 của series Knowledge and Space (Kiến thức và Không gian) được chủ biên bởi giáo sư Peter Meusburger, Michael Heffernan và Edgar Wunder. Đây là tuyển tập các bài nghiên cứu đa ngành chuyên sâu về kí ức văn hóa (cultural memories), tính không gian của kiến thức (spatiality of knowledge) và vai trò của nơi chốn (the role of places). Continue reading
Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 1)
Cuốn sách The Heritage Turn in China- The Reinvention, Dissemination and Consumption of Heritage, chủ biên bởi Carol Ludwig, Linda Walton và Yi-Wen Wang, xuất bản năm 2020. Cuốn sách này là tuyển tập các bài nghiên cứu độc lập về việc ứng dụng và thực hành di sản ở Trung Quốc trong thời kì hiện đại dưới góc nhìn và phân tích của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và quốc tế đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Continue reading
Kí ức văn hóa và Câu chuyện thiết kế
Cultural Memories- The Geographical point of view (Kí ức văn hóa- Từ góc nhìn địa lý) là tập 4 trong series Knowledge and Space (Kiến thức và Không gian) được chủ biên bởi giáo sư Peter Meusburger, Michael Heffernan và Edgar Wunder. Đây là tuyển tập các bài nghiên cứu đa ngành chuyên sâu về kí ức văn hóa (cultural memories), tính không gian của kiến thức (spatiality of knowledge) và vai trò của nơi chốn (the role of places). Continue reading
Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất
Rethinking Design and Interiors- Human Beings in the Built Environment (Tư duy lại về khái niệm thiết kế và những không gian nội thất- Con người trong môi trường xây dựng) là một trong số ít những cuốn sách chuyên ngành được viết dành riêng cho lĩnh vực nội thất dưới góc độ nghiên cứu học thuật. Cuốn sách đã nêu rõ đồng thời lý giải nguyên nhân đằng sau khoảng trống giữa hoạt động thực hành và nghiên cứu học thuật trong chuyên ngành Nội thất. Continue reading
Các phương pháp Sáng tạo trong Thiết kế (Phần 1)
Giới thiệu về tình trạng lối mòn tư duy trong thiết kế và các phương pháp sáng tạo hiệu quả hiện nay: Phương pháp sơ đồ tư duy (Mindmap), Phương pháp 6 chiếc mũ tư duy (six thinking hats), Phương pháp tư duy hình thái (Lateral thinking) Continue reading
Website tự học online tại nhà mùa Covid-19 (cập nhật ngày 10/4/2020)
Trong thời gian ở nhà tránh dịch Covid-19, Splace xin gợi ý MỘT SỐ TRANG WEB TỰ HỌC ONLINE CHẤT LƯỢNG từ các trường top đầu thế giới như Đại học Harvard, MIT, Cambridge … Continue reading
[Infographic] Gỗ công nghiệp từ A – Z
Gỗ công nghiệp (Wood – Based Panel) là thuật ngữ dùng để phân biệt với loại “gỗ tự nhiên” (loại gỗ lấy từ thân cây gỗ). Gỗ công nghiệp sử dụng keo hay hóa chất kết hợp với gỗ vụn để làm ra tấm gỗ (từ ngọn, cành của cây gỗ tự nhiên). Gỗ công nghiệp được cấu thành bởi 2 yếu tố: Lõi (cốt gỗ) và bề mặt. Continue reading
Sắp đặt không gian Nhà ở mùa dịch Covid-19
Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, mỗi cá nhân cần đầu tư không gian sống đúng nghĩa: Thường xuyên dọn dẹp nhà cửa; Mở cửa sổ & sử dụng lưới chống côn trùng; Phân chia không gian rõ ràng; Tinh dầu kháng khuẩn; Máy lọc không khí Continue reading
Hình thái của Cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)
Bài tiểu luận của kiến trúc sư Juhani Pallasmaa giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Continue reading
Mặt Tối Của Trào Lưu Kiến Trúc Hiện Đại – Câu Chuyện Của Con Gái Một Kiến Trúc Sư Lớn Lên Ở Không Gian Kiến Trúc Nhà Kính (Phần 1)
Cuốn hồi ký sắp ra mắt của Elizabeth W. Garber – “Sự Sụp đổ”, kể về câu chuyện của chính cô gắn với lịch sử ngôi nhà kính được thiết kế bởi cha mình – Kiến trúc sư Woodie Garber. Cha cô được biết đến như là một Kiến trúc sư hiện đại cực đoan, thực nghiệm và sáng tạo nhất của Cincinnati. Continue reading
Kiến trúc cho người nghèo (phần 1)
KIẾN TRÚC CHO NGƯỜI NGHÈO
Hassan Fathy là một trong những kiến trúc sư chân chính và tiêu biểu nhất cho khái niệm kiến trúc bền vững từ những năm 50 của thế kỉ 20. Bản dịch này bao gồm 3 chương trong cuốn sách Kiến trúc cho người nghèo (Architecture for the Poor) về những quan điểm và suy ngẫm của Hassan Fathy trước sự xói mòn của bản sắc dân tộc và trách nhiệm của kiến trúc sư trong kiến trúc hiện đại Ai Cập. Continue reading
Đôi mắt của Làn Da – Kiến trúc và các giác quan
Đôi mắt của Làn da (The Eyes of the Skin), được xuất bản lần đầu vào năm 1996, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Juhani Pallasmaa và cũng là một cuốn sách kinh điển trong giảng dạy lí luận kiến trúc. Continue reading
Recent Posts
INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 3)

Urban interior

Khái niệm về public interior theo Leveratto được ghi nhận đầu tiên vào thế kỉ 19 từ nghiên cứu còn dang dở của Walter Benjamin- một triết gia, nhà phê bình văn hóa và nhà văn người Đức gốc Do Thái, về sự cư ngụ trong không gian và văn hóa của Paris vào thế kỉ 19 trong mối tương quan với những thành phố hiện đại, khái niệm outside- inside thông qua việc sử dụng kính trong kiến trúc hiện đại, etc- The Arcades Project. Ở đó, public interior được miêu tả như “the dream-houses of the collective”– “where boundaries between public and private blurred in the sudden overlap of commercial purposes and domestic values (nơi mà những giới hạn giữa công cộng và riêng tư bị xóa nhòa một cách đột ngột vì mục đích thương mại và những giá trị nội địa) (Leveratto, 2019).
Đồng thời, sự liên hệ giữa interior và urban cũng xuất phát từ những định nghĩa rất sớm về city như một tổng thể không gian cư ngụ liên tục (uninterrupted inhabited landscape)- Camillo Sitte (1889) hay theo Hermann Sörgel (1918) city là những căn phòng (khối kiến trúc) được liên kết với nhau thông qua những hành lang (hệ thống đường sá) mà ở đó, interior chính là những “open-air room” (Leveratto, 2019).
Sự giao nhau giữa interior và urban đang mở ra những cơ hội và thách thức trong lĩnh vực nghiên cứu cũng như đào tạo giáo dục: đặt ra câu hỏi về việc tư duy lại về khái niệm interior cũng như giới hạn và trọng tâm nghiên cứu trong giáo dục đào tạo cũng như hoạt động thực hành interior design:
“The idea of urban interior challenges an assumption that interior design necessarily has to take place inside a building and shifts the focus to a relational condition- here the “and” between urban and interior is a question of designing and making the relation”
(Attiwill, 2011)
Trên thực tế, những đổi mới tư duy này đã và đang được áp dụng vào các chương trình giáo dục ở bậc cử nhân và thạc sĩ ở các nước như Mỹ, Úc, Thái Lan, UK, Ý, etc dưới hình thức các đồ án sinh viên. Ví dụ như đồ án Interior room: Urban room là đồ án kết hợp giữa sinh viên chuyên ngành interior design và urban planning ở University of Porstmouth- UK (Farrelly & Mitchell 2008), đồ án thiết kế Urban Room cho sinh viên interior design ở RMIT School of Architecture and Design- Australia, Global: Studio– một đồ án thiết kế liên ngành giúp sinh viên phân tích và so sánh khái niệm intertwined space trong urban environment ở các thành phố ở Mỹ và Trung Quốc (Marinic et al., 2021), hay như đồ án thiết kế cho sinh viên chuyên ngành Interior Architecture- DomestiCITY ở University of Technology Thonburi- Thái Lan. Tất cả những đồ án này đều có điểm chung là giúp phá vỡ những định kiến về tư duy không gian “truyền thống” của sinh viên, đặc biệt ngay từ những năm đầu tiên.
Đề bài của các đồ án thường đặt khái niệm interior vào urban environment và khuyến khích sinh viên tiếp cận bắt đầu từ việc tư duy sáng tạo về bản chất của các khái niệm không gian rồi từ đó tiến hành khảo sát thu thập dữ liệu thực tế từ các hoạt động sinh hoạt văn hóa xã hội hằng ngày trước khi thảo luận về ý tưởng thiết kế.
Những assumption về interiority perspective trong built environment (vốn mang tính trực giác và suy đoán, chưa được kiểm định) là thứ khiến tôi luôn trầy trật và hoang mang về năng lực tư duy và kĩ năng chuyên môn của bản thân trong suốt thời gian học cử nhân ở đại học Kiến trúc TP.HCM và kể cả sau này khi tự mày mò viết research proposal để apply cho các chương trình Tiến sĩ về kiến trúc và đô thị của các trường Đại học trên thế giới. Thế nhưng khi nhận ra nó lại chính là một xu hướng đã và đang thành hình trên thế giới trong suốt hơn 50 năm qua, tôi tin rằng năng lực tư duy trừu tượng về các khái niệm rất cụ thể (ví dụ như không gian nội thất, không gian đô thị, không gian kiến trúc) là cầu nối quan trọng nhất giúp kết nối những khái niệm tưởng chừng như cách nhau rất xa này: interior design- collective memory- urban space.
Khi quyết định nghỉ việc, đa số mọi người xung quanh đều thắc mắc vì sao tôi lại muốn từ bỏ một công việc ổn định, lương cao, quay lại “điểm xuất phát” để làm nghiên cứu, một hoạt động “thiếu thực tế” và lại đầy áp lực. Câu hỏi này vốn dĩ đã phản ánh rất rõ một dạng tư duy đơn chiều phổ biến trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng cần hiểu rõ rằng, đó chỉ là một trong số nhiều cách tư duy về cuộc sống mà con người có thể sử dụng. Nói cách khác, một thế giới vật lý tưởng chừng như rất hữu hạn (cuộc sống hằng ngày, kiến thức đã được phổ cập, etc) nhưng thật chất lại có thể được đào sâu và mở rộng đến vô cùng tận thông qua năng lực tư duy trừu tượng của con người. Ý thức được sự tồn tại vô tận của thế giới quan bên trong bộ não nhỏ bé của con người và nỗ lực để leo lên một vị trí đủ bao quát để nhìn rõ được vẻ đẹp phức tạp khôn cùng của cái hệ thống vô hình đang vận hành cuộc sống hằng ngày này là một thứ cảm giác hưng phấn rất khó tìm được trong dạng công việc “9 to 5”.
[Lipv]
INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 1)
INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 2)
Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/interiority-va-urban-interior/
Tài liệu tham khảo:
Attiwill, S. (2011). Urban and Interior: Techniques for an urban interiorist. In R. U. Hinkel (Ed.), Urban interior: An informal explorations, interventions and occupations (pp. 11–24). Spurbuchverlag.
Crompton, A. (2001). The Fractal Nature of the Everyday Environment [Article]. Environment and Planning. B, Planning & Design., 28(2), 243–254. https://doi.org/10.1068/b2729
Crompton, A. (2005). How big is your city, really?
Hebbert, M. (2005). The Street as Locus of Collective Memory. Environment and Planning D: Society and Space, 23(4), 581–596. https://doi.org/10.1068/d55j
Leveratto, J. (2019). Urban Interiors: A Retroactive Investigation [Article]. Journal of Interior Design, 44(3), 161–171. https://doi.org/10.1111/joid.12153
Marinic, G., Radtke, R., & Luhan, G. (2021). Critical Spatial Practices: A Trans-scalar Study of Chinese Hutongs and American Alleyways [Article]. Interiority, 4(1), 27–42. https://doi.org/10.7454/in.v4i1.79
McCarthy, C. (2005). Toward a Definition of Interiority [Article]. Space and Culture, 8(2), 112–125. https://doi.org/10.1177/1206331205275020
- Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 5) Leave a reply
- Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 4) Leave a reply
- Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 3) Leave a reply
- Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Phần 2) Leave a reply
- Jan Assmann- Kí ức giao tiếp và kí ức văn hóa (Lời người dịch) Leave a reply
- Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 5) 4 Replies
- Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 4) 4 Replies
- Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 3) 4 Replies
- Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 2) 4 Replies